Danh mục blog

Tại Rặng Núi Cuồng Điên (phần 5) - H. P. Lovecraft - Truyện Đọc Online

Giới thiệu chung:

 

  1. Tiêu đề truyện gốc: At the Mountains of Madness
  2. Năm xuất bản lần đầu: 1931
  3. Dịch tiếng Việt bởi: Nguyễn Thành Long
  4. Bản quyền bản dịch: Sách Bookism

---

Đọc truyện: Tại Rặng Núi Cuồng Điên

CHƯƠNG II (2)

Dẫu vậy, vị giáo sư vẫn quyết định sẽ triển khai một số hoạt động khoan đục quy mô nhỏ ngay tại khu vực hiện thời, coi đó như một phần trong chương trình tổng thể của nhóm. Thế là giàn khoan liền được lắp đặt, và rồi năm thành viên trong đoàn được phân công vận hành nó, trong khi những nhân sự khác lo hoàn tất việc dựng trại và sửa chữa chiếc phi cơ hỏng. Vỉa đá mềm nhất họ có thể nhìn thấy - một mảng sa thạch cách trại độ nửa cây - được chọn làm điểm lấy mẫu đầu tiên; và máy khoan hoạt động rất suôn sẻ, không đòi hỏi nổ mìn bổ trợ nhiều. Khoảng ba tiếng sau, lúc họ vừa đánh nổ xong mẻ mìn hạng nặng đầu tiên, phía đội khoan chợt rộ lên tiếng hò la nhốn nháo; thế rồi Gedney - cậu quản đốc trẻ tuổi - hớt hơ hớt hải xộc vào trại, đem theo một tin chấn động tột cùng.

Họ đã đào trúng một hang động. Không bao lâu sau khi bắt đầu khoan, sa thạch đã nhường chỗ cho một mạch đá vôi thời Comanche, đầy nhóc hóa thạch nhỏ tí của động vật chân đầu, san hô, cầu gai, và động vật xương tay xoắn ốc, đôi khi còn xuất hiện kèm những thứ hao hao bọt biển silic và xương sống động vật hải dương nữa - trong đấy, mấy mẩu xương chắc thuộc về cá xương thật, cá mập, và cá vảy láng. Bản thân khám phá này cũng đã quan trọng lắm rồi, bởi vì nhờ nó, nhóm thám hiểm đã thu được những mẫu hóa thạch động vật có xương sống đầu tiên; nhưng chốc sau, khi mũi khoan đục xuyên địa tầng ấy và thọc xuống nơi gì chừng như rỗng không, một làn sóng phấn khích mới và thậm chí còn mãnh liệt gấp đôi lan truyền khắp đội ngũ đào xới. Một vụ nổ mìn quy mô đã giúp phơi bày bí ẩn dưới lòng đất ấy; và giờ đây, nằm rộng ngoác trước mắt những người dò tìm hăm hở, bên kia một lỗ hổng sứt mẻ lởm chởm với bề ngang suýt soát mét rưỡi, bề dày tầm đâu một mét, là một đoạn hốc đá vôi nông, bị lạch nước ngầm của một xứ sở nhiệt đới dĩ vãng bào mòn nên từ hơn năm mươi triệu năm trước.

Tầng đất rỗng này sâu không quá hai mét hay hai mét rưỡi gì đó, nhưng lại trải dài bất tận theo mọi hướng và có một luồng không khí trong lành nhè nhẹ lưu thông, cho thấy nó thuộc về một hệ thống hang ngầm rộng lớn. Trần với sàn của nó chi chít nhũ đá và măng đá lớn, một số chập liền vào nhau thành các cột trụ; nhưng quan trọng hơn hết, nơi đây trữ nguyên một kho vỏ sò và xương lớn vô ngần, đôi chỗ còn thiếu điều bít nghẽn lối đi. Nùi di cốt hỗn tạp này đã bị cuốn trôi xuống đây từ những đại ngàn không tên không tuổi, rậm rạp dương xỉ và nấm Trung Sinh[1], cùng cả những cánh rừng nào mè, nào cọ xẻ, nào thực vật hạt kín nguyên thủy thuộc kỷ Đệ Tam[2]; và chứa đựng trong đó là đại diện của các loài động vật thời Creta[3], Eocen[4], cũng như hàng loạt thời kỳ khác nữa, nhiều tới độ dù có để nhà cổ sinh vật học lỗi lạc nhất thế gian kiểm đếm và phân loại chúng thì tận một năm sau, người ta cũng vẫn chưa làm xong nổi. Động vật thân mềm, giáp xác, cá, lưỡng cư, bò sát, chim, và động vật có vú sơ khai - đủ cả to lẫn nhỏ, đã biết lẫn chưa biết. Bảo sao Gedney lật đật chạy về trại làm ầm cả lên, và bảo sao tất cả những người khác đều bỏ ngang công việc để lao đi giữa cái lạnh thấu thịt, ùa đến bên giàn khoan cao đánh dấu cánh cổng vừa được tìm ra - một cửa ngõ khám phá bí mật ẩn trong gan ruột Trái Đất, cũng như bí mật của các niên kỷ đã biến tan.

Sau khi đã xoa dịu được cơn tò mò cháy bỏng ban đầu, Lake ngoáy nhanh mấy dòng vào sổ tay, thế rồi nhờ cậu Moulton tức tốc quay trở lại trại để đánh điện gửi nó đi. Đây là thông báo đầu tiên tôi nhận được về phát hiện này, và theo lời nó kể, họ đã xác định được rằng ở đây có các mẫu vỏ sò thời kỳ đầu, xương cá vảy láng và cá da phiến, tàn tích lưỡng cư răng rối và thằn lằn răng trong ổ, các mảnh sọ thương long lớn, đốt sống và phiến giáp khủng long, răng và xương cánh dực long, vụn xương điểu long lông vũ, răng cá mập thời Miocen[5], hộp sọ chim nguyên thủy, và xương xẩu các loài động vật có vú cổ khác như thú họ Palaeotheriidae[6], thú răng kiếm, ngựa thủy tổ, thú họ Oreodon[7], và thú họ Titanotheriidae[8]. Không có loài nào gần thời nay như voi răng mấu, voi, lạc đà đích thực[9], hươu, hay trâu bò, vậy nên Lake kết luận rằng thời kỳ cuối cùng nơi này còn xảy ra bồi lắng là thế Oligocen[10], và địa tầng rỗng ấy đã lưu giữ cái hiện trạng khô khốc, chìm trong chết chóc, không thể tiếp cận được của mình tối thiểu cũng phải ba chục triệu năm rồi.

Mặt khác, thật rất đỗi quái chiêu là ở đây lại có nhiều hình thái sống siêu ban sơ đến vậy. Căn cứ vào những mẫu hóa thạch chôn trong đá tiêu biểu, tỉ như bọt biển họ Ventriculitidae[11], thành hệ đá vôi này rõ ràng phải thuộc thế Comanche, chẳng thể lẫn đi đâu được. Không đời nào có chuyện nó hình thành từ trước mốc đấy, dù chỉ sớm hơn chút chút. Tuy nhiên, trong số các mảnh hóa thạch nằm vương vãi bên ngoài lớp đá của địa tầng rỗng, chiếm tỷ trọng cao đến bất ngờ lại là tàn tích những sinh vật vốn trước nay luôn được liệt vào dạng đặc hữu, chỉ tồn tại ở các thời kỳ cổ xưa hơn hẳn - thậm chí còn gồm cả các chủng cá sơ khai, động vật thân mềm, và san hô từ những kỷ nguyên xưa lắc xưa lơ như kỷ Silur[12] hoặc kỷ Ordovic[13]. Cứ theo đó, kết luận tất yếu rút ra được là: không như bất cứ đâu khác, sự sống ở vùng này nhất quán đến phi thường, hơn ba trăm triệu năm trước vẫn giống với thời cách đây độc ba mươi triệu năm. Dĩ nhiên, có trời mới biết nó còn duy trì được tính nhất quán ấy thêm bao lâu nữa sau khi giai đoạn Oligocen chấm dứt, tức thời điểm cái hang bị bít mất. Nhưng dù gì thì gì, khoảng năm trăm ngàn năm trước - tức chỉ vừa hôm qua nếu đem so với tuổi đời của cái hang này - băng giá kinh hoàng đã xâm lấn thế Pleistocen[14], và nó hẳn đã đặt dấu chấm hết cho mọi hình thái sống nguyên thủy nơi đây, những kẻ vốn bấy lâu đã xoay xở bấu víu lại dương thế quá ngưỡng giai đoạn tồn tại thông thường của giống loài mình.

Gửi xong bức thông điệp đầu tiên, Lake vẫn không chịu thôi. Lúc Moulton còn chưa kịp quay trở lại điểm khoan, ông đã viết thêm luôn một thông báo mới, thế rồi sai người phóng qua băng, qua tuyết đem nó về trại. Bắt đầu từ đây, Moulton cắm hẳn chốt bên một chiếc phi cơ, túc trực tại máy vô tuyến của nó để nhắn cho tôi những bản tái bút được Lake liên tục nhờ hết người này đến người khác gửi về. Chúng cũng được điện sang cho cả tàu Arkham nữa, để nó còn chuyển tiếp thông tin cho thế giới bên ngoài. Những ai chịu khó theo dõi tin tức hẳn vẫn nhớ các báo cáo chiều hôm đó đã khiến giới khoa học dậy sóng tới nhường nào. Nhiều năm sau, chúng rốt cuộc còn đã thúc đẩy người ta thành lập chính cái đoàn tôi hiện đang tìm mọi cách can ngăn: Đoàn thám hiểm Starkweather-Moore. Tốt hơn hết, tôi nên trình bày nguyên văn các thông điệp Lake đã gửi, không thuật lệch dù chỉ nửa chữ so với nội dung đã được McTighe, anh trực đài ở căn cứ nhóm chúng tôi, phiên dịch lại từ các đoạn tốc ký ghi bằng bút chì:

“Fowler đã có một phát hiện vô cùng chấn động. Nằm trong các mảnh sa thạch và đá vôi thu được sau khi đánh mìn là hàng loạt vết tam giác vằn vân rất rõ nét, tương tự các vết trong mạch đá Thái Cổ. Như thế chứng tỏ sinh vật để lại chúng đã sống sót từ hơn sáu trăm triệu năm trước tới tận giai đoạn Comanche với hình thái không mấy biến đổi, và kích thước trung bình cũng chỉ suy giảm ở mức vừa phải. Thực ra, nếu so sánh, các vết thời Comanche xem chừng còn nguyên thủy hơn, không thì cũng bị thoái hóa hơn so với những vết từ thời trước đấy. Phải nhấn mạnh tầm quan trọng của phát hiện này trong thông cáo báo chí. Nó sẽ khuynh đảo ngành sinh học như Einstein từng khuynh đảo toán học và vật lý. Khớp với nghiên cứu tôi từng thực hiện, đồng thời góp phần bổ trợ cho các kết luận sẵn có.

Đây dường như cho thấy tôi đã suy đoán đúng về một chuyện: sự sống hữu cơ trên Trái Đất từng trải qua một hoặc nhiều chu kỳ phát triển trọn vẹn, sau đó mới bước vào chu kỳ đã biết - tức chu kỳ bắt đầu với các tế bào đại Cổ Sinh[15]. Tối thiểu cũng đã tiến hóa và trở nên chuyên biệt từ một tỷ năm trước, lúc hành tinh còn trẻ và cách đấy chưa lâu hãy còn là một môi trường không tài nào cư ngụ nổi đối với mọi dạng thức sống cũng như cấu trúc nguyên sinh chất bình thường. Câu hỏi đặt ra là biến chuyển đó xảy ra từ bao giờ, ở nơi đâu, và như thế nào.”

*

“Một lúc sau. Trong quá trình nghiên cứu một số mảnh xương thằn lằn lớn - cả chủng sống trên cạn lẫn chủng sống dưới nước - cùng xương động vật có vú nguyên thủy, đã phát hiện trên cấu trúc xương có những tổn hại hoặc thương tích cục bộ dị thường, không ứng với thú săn mồi hoặc động vật ăn thịt đã biết ở bất cứ thời kỳ nào. Các vết thương chia làm hai dạng: những lỗ thẳng, đục xuyên qua xương; và các đường rạch trông như vết chém. Một, hai trường hợp xương bị phạt gãy lìa. Không nhiều mẫu vật bị ảnh hưởng. Đang phái người về trại lấy đèn pin. Sẽ chặt hạ nhũ đá để mở rộng phạm vi tìm kiếm xuống khu vực dưới lòng đất.”

(Còn tiếp)

---

Mời bạn đọc thêm:

 

  1. Phần trước: https://bookism.com.vn/tai-rang-nui-cuong-dien-phan-4-h-p-lovecraft
 

[1] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 252 triệu năm tới 66 triệu năm trước, bao gồm các kỷ Trias, Jura, và Creta. [N.D.]

[2] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 66 triệu năm tới khoảng 2,6 triệu năm trước. Thuật ngữ này hiện đã lỗi thời, và ngày nay, khi nhắc đến giai đoạn ấy, người ta thường hay sử dụng các đơn vị thay thế là kỷ Paleogen (còn gọi là kỷ Cổ Cận, kéo dài từ khoảng 66 triệu năm tới khoảng 23 triệu năm trước) và kỷ Neogen (còn gọi là kỷ Tân Cận, kéo dài từ khoảng 23 triệu năm tới khoảng 2,58 triệu năm trước). [N.D.]

[3] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 145 triệu năm tới khoảng 66 triệu năm trước. Còn được gọi là kỷ Phấn Trắng. [N.D.]

[4] Một giai đoạn trong kỷ Paleogen. Thế Eocen, hay còn gọi là thế Thủy Tân, kéo dài từ khoảng 56 triệu năm tới khoảng 33,9 triệu năm trước. [N.D.]

[5] Một giai đoạn trong kỷ Neogen. Thế Miocen, hay còn gọi là thế Trung Tân, kéo dài từ khoảng 23 triệu năm tới khoảng 5,33 triệu năm trước. [N.D.]

[6] Một họ động vật ăn cỏ có họ với ngựa, đã tuyệt chủng từ khoảng 33 triệu năm trước. [N.D.]

[7] Còn gọi là Merycoidodon. Đây là một họ động vật ăn cỏ có họ với lạc đà, đã tuyệt chủng từ khoảng 16 triệu năm trước. [N.D.]

[8] Còn gọi là Brontotheriidae. Đây là một họ động vật có vú trông khá giống tê giác, mặc dù thực chất có họ hàng gần với ngựa hơn. Chúng đã tuyệt chủng từ khoảng 34 triệu năm trước. [N.D.]

[9] Chỉ ba chủng lạc đà không đến từ Tân Thế Giới. Lạc đà đích thực bao gồm: lạc đà một bướu, lạc đà hai bướu hoang, và lạc đà hai bướu. [N.D.]

[10] Một giai đoạn trong kỷ Paleogen. Thế Oligocen, hay còn gọi là thế Tiệm Tân, kéo dài từ khoảng 33,9 triệu năm tới khoảng 23 triệu năm trước. [N.D.]

[11] Một họ bọt biển thuộc lớp Hyalospongiae, đã tuyệt chủng từ khoảng 38 triệu năm trước. Hóa thạch của chúng thường có hình chiếc bình hoặc hình nấm. [N.D.]

[12] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 443,8 triệu năm tới khoảng 419,2 triệu năm trước. [N.D.]

[13] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 485,4 triệu năm tới khoảng 443,8 triệu năm trước. [N.D.]

[14] Một giai đoạn trong kỷ Đệ Tứ (tức kỷ địa chất hiện tại, kéo dài từ khoảng 2,58 triệu năm trước tới ngày nay). Thế Pleistocen, còn gọi là thế Canh Tân, kéo dài từ khoảng 2,58 triệu năm tới khoảng 11.700 năm trước. [N.D.]

[15] Một thời kỳ địa chất kéo dài từ khoảng 538,8 triệu năm tới 252 triệu năm trước, bao gồm các kỷ Cambri, Ordovic, Silur, Devon (kéo dài từ khoảng 419,2 triệu năm tới khoảng 358,9 triệu năm trước), Cacbon (còn gọi là kỷ Thạch Thán, kéo dài từ khoảng 358,9 triệu năm tới khoảng 298,9 triệu năm trước), và Permi. [N.D.]


    Cùng dấn sâu vào dòng giả tưởng với tác phẩm mới nhất của Bookism tại đây bạn nhé.

    ↓   ↓


    TAGS :

    H. P. Lovecraft