25/05/2023
---
Phần 2
Lúc tỉnh dậy, anh nhìn mặt trời và áng chừng hiện đã là chiều muộn. Giấc ngủ đã ban cho anh nguồn sinh lực mới, đồng thời cả một cơn đói cồn cào. Anh nhìn ngó quanh quất, bộ dạng khá tươi tỉnh.
“Có tiếng súng nghĩa là có người. Có người nghĩa là có đồ ăn,” Anh nghĩ thầm. Nhưng quan trọng là loại người nào lại đi sống ở cái nơi hoang vu này? Ven bờ, rừng rú đan xen đặc nghẹt tựa một bức lũy dằng dặc, lởm chởm và rối rắm.
Không thấy bóng dáng lối mòn nào xuất hiện dưới nùi cỏ cây chằng chịt cả; đi ven bờ biển sẽ dễ hơn, và Rainsford quyết định lội dọc mép nước. Đi chưa xa chỗ gốc được bao lăm, anh đã lại dừng chân.
Từng có một con thú bị thương quẫy đạp trong bụi rậm ở đây, và căn cứ vào các dấu tích nó để lại, con vật xem chừng khá lớn. Nguyên một vùng cỏ cây đã bị đè nát, trong khi lớp rêu phủ bị cạo nhẵn mấy chỗ, chưa kể một mảng cỏ còn đã thấm đẫm máu nữa. Bỗng Rainsford để ý thấy nằm ngay gần đó là một vật nho nhỏ, lấp loé hắt nắng. Anh nhặt nó lên. Là một vỏ đạn rỗng.
“Đạn cỡ 22.” Anh lẩm bẩm “Kỳ dị thật. Con mồi ắt hẳn phải to ra trò chứ chẳng đùa đâu. Nghênh chiến với nó bằng súng nhỏ cỡ ấy thì chỉ có hạng gan hùm mới dám làm. Rõ là con vật đã kháng cự rất quyết liệt. Ba phát đạn đầu mình nghe thấy chắc để lùa nó và bắn què nó thôi. Phát cuối được khai hỏa tại đây, kết liễu luôn con vật, sau khi người thợ săn đã lần theo dấu vết của nó.”
Rainsford thận trọng rà soát mặt đất, và đúng như đã hy vọng, anh phát hiện ra dấu ủng đi săn. Chúng chạy dọc vách đá, trùng với hướng anh nãy giờ đã đi. Lòng đầy phấn khởi, anh mau chân bước, thỉnh thoảng lại vấp chân vào mảnh gỗ mục hoặc hòn đá nứt nẻ, song hành trình nhìn chung vẫn tiến triển tốt. Nắng hiện đã bắt đầu nhạt dần, nhường chỗ cho màn đêm.
Khi tăm tối mịt mù bắt đầu che khuất biển rừng, Rainsford rẽ qua một khúc quanh ven biển, và trông thấy ánh đèn. Mới đầu, anh đinh ninh mình đã đặt chân đến một ngôi làng nào đó, bởi lẽ đèn đuốc thắp lên rất nhiều. Nhưng sau một hồi vạch rừng đi tới, anh vô cùng sửng sốt nhận ra mọi nguồn sáng đều đến từ một căn nhà đồ sộ. Đây là cả một công trình kiến trúc cao ngất, với những tòa tháp nhọn vòi vọi vươn mình dưới cái âm u. Anh lờ mờ trông thấy bóng dáng một lâu đài nguy nga, nằm trên một con dốc cao, bao quanh bởi những gờ đá thẳng đứng, bổ nhào xuống nơi biển đang le lưỡi liếm láp trong đêm.
“Ảo giác rồi.” Rainsford nghĩ thầm. Nhưng lúc mở cánh cổng sắt khổng lồ đầy cọc rào nhọn hoắt ra, anh nhận thấy đây chẳng phải ảo giác gì cả. Những bậc thang đá kia là thật; ô cửa khổng lồ với bộ vòng gõ mang hình quái thú lừ mắt kia là thật; ấy nhưng bên trên tất cả, một hương hình ảo ảnh vẫn cứ phảng phất.
Rainsford nhấc vòng gõ lên. Nó vọng lên tiếng kẽo kẹt như thể chưa bao giờ được dùng tới. Anh buông tay, và tiếng uỳnh ồn ã nó phát ra khi đập vào cửa khiến anh giật bắn cả mình. Anh có cảm tưởng mình nghe thấy bên trong có tiếng chân bước. Tuy nhiên, cánh cửa vẫn đóng im ỉm. Rainsford lại nhấc chiếc vòng nặng trịch lên và thả cho nó rơi. Đúng lúc ấy, cánh cửa chợt bật mở, thình lình như thể bật ra từ lò xo. Đột nhiên bị đắm trong dòng sáng vàng chóe, Rainsford nheo hết mắt lại. Khi hoàn hồn, thứ đầu tiên anh nhìn ra là một người đàn ông cao lớn chưa từng thấy - một sinh vật khổng lồ, người ngợm vạm vỡ, trên mặt là một bộ râu đen nhánh, dài ngang thắt lưng. Gã cầm trong tay một khẩu súng lục nòng dài, và nó đang chĩa thẳng vào tim anh.
Chìm giữa nùi râu rậm rạp ấy là hai con mắt bé tí, bấy giờ đang lom lom nhìn Rainsford.
“Xin chớ lo,” vừa nói, Rainsford vừa cố nặn ra một nụ cười anh hy vọng sẽ giúp xoa dịu tình hình. “Tôi không phải là phường trộm cướp. Tôi bị ngã khỏi tàu. Tên tôi là Sanger Rainsford, từ New York lạc đến.”
Vẻ thù địch trong cặp mắt không hề lui bớt. Cây súng vẫn chĩa thẳng đơ, tựa hồ gã khổng lồ kia là một pho tượng. Không có dấu hiệu nào cho thấy gã hiểu hay thậm chí bỏ vào tai đến một lời của Rainsford. Gã diện trên người bộ đồng phục màu đen viền da cừu xám.
“Tên tôi là Sanger Rainsford, từ New York lạc đến,” Rainsford lặp lại. “Tôi bị ngã khỏi tàu và đang đói lả.”
Đáp lại, hành động duy nhất của gã là lấy ngón cái kéo búa kim hỏa. Thế rồi Rainsford thấy bàn tay không cầm gì của gã đưa lên trán, tạo thành thế chào kiểu nhà binh, trong khi gót chân gã gõ cốp lại đứng nghiêm. Bây giờ, đến lượt một người khác bước xuống các bậc đá cẩm thạch to bè. Người này cao, gầy, áo quần rất lịch sự. Ông ta tiến đến trước mặt Rainsford và chìa tay ra. Với chất giọng đầy nho nhã kèm chút đớt âm, giúp gợi cảm giác cẩn trọng và chuẩn xác, người kia nói, “Thật vinh hạnh khi được chào đón một thợ săn lừng danh như anh đến chơi nhà, thưa anh Sanger Rainsford.”
Theo bản năng, Rainsford bắt tay ông ta.
“Chẳng là tôi đã đọc cuốn sách kể về chuyến săn báo tuyết ở Tây Tạng của anh ấy mà.” Ông ta giải thích. “Xin tự giới thiệu, tôi là Đại tướng Zaroff.”
Ấn tượng đầu tiên của anh về viên đại tướng là ngoại hình điển trai đến ngỡ ngàng của ông ta. Ấn tượng thứ hai là gương mặt con người này toát lên một vẻ đầy cá tính, gần như là dị thường. Người đàn ông cao kều đó hẳn đã quá tuổi trung niên, bởi lẽ mái tóc ông ta đã bạc trắng hoàn toàn, song cặp lông mày cùng bộ râu nhà binh tỉa nhọn của ông ta lại đen nhánh, chẳng khác nào màn đêm Rainsford từng ở trong. Cả mắt ông ta cũng đen láy, sáng quắc. Ông ta sở hữu cặp gò má nhô cao, chiếc mũi sắc cạnh, và gương mặt gầy gò, rám nắng - dung mạo một con người nắm quyền hành trong tay, dung mạo một nhà quý tộc. Viên đại tướng quay sang gã khổng lồ mặc quân phục và ra dấu. Thế là gã liền thu súng lại, giương tay chào, sau đó rút đi.
“Ivan khỏe mạnh hiếm ai địch nổi,” viên đại tướng nói, “khốn nỗi hắn vừa câm lại vừa điếc. Tên này cũng thật thà, nhưng tôi e rằng bản tính hắn hơi man rợ chút, hệt như đồng bào của hắn thôi.”
“Anh ta là người Nga à?”
“Dân Cô-dắc,” viên đại tướng đáp. Đôi môi đỏ chót của ông ta nhoẻn một nụ cười, phô ra hàm răng nhọn hoắt. “Cùng quê tôi đấy.”
“Vào nhà đã,” ông ta nói, “cứ tiếp tục tán gẫu ở đây thật không phải phép. Lát nói chuyện sau cũng được. Bây giờ anh cần quần áo mới, thức ăn, và nghỉ ngơi. Anh sẽ được chu cấp đầy đủ. Không nơi nào thoải mái như đây đâu.”
Ivan lại xuất hiện. Vị đại tướng mấp máy môi trò chuyện với gã mà không phát ra tiếng nào.
“Phiền anh theo chân Ivan nhé, anh Rainsford,” Ông tướng nói. “Tôi đang chuẩn bị dùng bữa thì anh đến. Tôi sẽ vào đợi trước. Áo quần của tôi chắc sẽ vừa với anh đấy.”
Rainsford theo chân gã khổng lồ lầm lì bước vào một căn phòng ngủ khổng lồ với mái trần lộ giầm, và bên trong đặt chiếc giường rủ màn đủ lớn cho sáu người cùng nằm. Ivan bày ra một bộ y phục trang trọng. Khi khoác lên mình bộ cánh đó, Rainsford nhận ra nó do một thợ may có tiếng ở London thiết kế, người từ trước đến nay chưa từng phục vụ ai dưới tước công hầu.
Phòng ăn Ivan dẫn anh vào tuyệt mỹ khó tả. Nơi đây mang nét tráng lệ thời Trung Cổ, gợi cho người ta cảm giác như đang đứng trong đại sảnh phong kiến xưa với các tấm ốp gỗ sồi, khung trần cao rộng, những chiếc bàn ăn đủ to để bốn mươi người cùng ngồi dự yến. Tường vách xung quanh treo đầy đầu thú vật: sư tử, hổ, voi, hươu, gấu; chưa kể một số loài đẹp đẽ Rainsford chưa một lần mục sở thị. Ngồi một mình bên bàn là viên đại tướng kia.
“Anh dùng cốc-tai chứ, anh Rainsford?” Viên đại tướng mời. Ly cốc tai ấy ngon ngoài sức tưởng tượng; đồng thời, Rainsford cũng để ý thấy mọi vật bày biện trên bàn - từ chiếc khăn trải lụa, những món đồ thủy tinh, dao kéo, cho đến bát đĩa sứ - toàn là đồ hảo hạng.
Họ cùng thưởng thức booc-sơ, món súp đỏ ăn kèm kem đặc quen thuộc của dân Nga. Ý chừng muốn cáo lỗi, viên đại tướng nói, “Tại đây, chúng tôi luôn cố sức gìn giữ phần nào nét văn minh. Nếu có gì sơ suất, xin anh hãy bỏ quá cho. Kể ra chúng tôi cũng đâu được sống tại nơi sầm uất. Chỗ sâm panh chắc chưa mất vị do phải chuyển vượt đại dương đâu nhỉ?”
“Chưa mất chút nào hết,” Rainsford trả lời. Trong mắt anh, viên đại tướng là một người chủ nhà tận tâm và hiếu khách nhất trần đời, một con người lịch duyệt mẫu mực, từng chu du khắp bốn bể. Tuy nhiên, vẫn có nét gì đó ở viên đại tướng khiến người thanh niên không khỏi bận lòng. Cứ mỗi lần ngước lên, Rainsford lại thấy viên đại tướng đang kín đáo nhìn anh, ra chiều đánh giá rất tỉ mẩn.
“Có lẽ,” Đại tướng Zaroff nói, “hồi nãy anh khá ngạc nhiên khi thấy tôi nhận ra quý danh mình. Xin mạn phép kể anh nghe, tôi đã đọc hết mọi cuốn sách về săn bắn của cả Anh, Pháp, và Nga. Đời này tôi chỉ có một đam mê duy nhất, ấy chính là đi săn, anh Rainsford ạ.”
“Ngài có những tiêu bản thật tuyệt vời,” Vừa thưởng thức món thăn bò tuyệt ngon, Rainsford vừa đáp. “Cái đầu bò rừng Châu Phi kia có lẽ là thứ lớn nhất mà tôi từng được chiêm ngưỡng.”
“À, cái con đó. Vâng, nó là hạng quái thú chứ chẳng chơi đâu.”
“Nó có xổ vào người ngài không?”
“Nó liệng tôi vào một gốc cây,” viên đại tướng kể lại “Làm tôi nứt cả hộp sọ. Nhưng cuối cùng tôi vẫn hạ được con quái đấy.”
“Tôi luôn nghĩ rằng,” Rainsford đưa lời, “dưới gầm trời này chẳng có con mồi nào nguy hiểm ngang bò rừng Châu Phi cả.”
Viên đại tướng im lặng trong giây lát; cặp môi đỏ hồng của ông ta lại nhếch lên thành nụ cười đầy bí ẩn. Thế rồi ông ta chậm rãi nói, “Không. Anh sai rồi. Bò rừng Châu Phi chưa phải con mồi nguy hiểm nhất đâu.” Ông ta nhấp một ngụm rượu. “Trên hòn đảo này,” ông ta vẫn nói với cái giọng từ tốn ấy, “tôi còn săn những con mồi nguy hiểm gấp bội.”
Rainsford ngẩn người ra, “Trên đảo này có mồi dữ sao?”
Viên đại tướng gật đầu. “Dữ nhất trần đời.”
“Thật à?”
“À, tất nhiên loài đó không phải là cư dân bản địa của hòn đảo này. Tôi phải nhập từ nơi khác về.”
“Ngài nhập con gì về vậy, thưa đại tướng?” Rainsford hỏi “Hổ ư?”
Viên đại tướng cười. “Không,” ông ta nói. “Tôi mất hứng với chúng từ mấy năm trước rồi. Tôi đã vắt kiệt mọi tinh chất từ chúng. Hổ chẳng còn chút thú vị, chút nguy hiểm nào cả. Trong khi đó, tôi thì là con người ưa nguy hiểm, anh Rainsford ạ.”
Viên đại tướng lấy từ trong túi áo ra một hộp thuốc lá vàng và lịch sự mời khách một điếu đen tuyền với đầu hút bằng bạc; nó được ướp thơm phức mùi hương trầm.
“Rồi chúng ta sẽ cùng nhau đi săn một bữa ra trò,” Viên đại tướng nói. “Tôi sẽ rất hân hạnh nếu có anh làm bạn đồng hành.”
“Nhưng chính xác thì chúng ta săn…” Rainsford dợm hỏi.
“Để tôi kể,” Viên đại tướng ngắt lời “Hẳn anh sẽ thấy thú vị lắm đấy. Nói thế này thì không được khiêm nhường lắm, nhưng tôi tin rằng mình đã thực hiện một điều xưa nay hiếm. Tôi đã phát minh ra cả một trải nghiệm mới. Anh dùng thêm rượu nhé?”
“Xin cảm ơn, thưa đại tướng.”
Viên đại tướng rót đầy hai ly rượu trước khi nói tiếp, “Có kẻ Chúa cho làm thi sĩ. Có kẻ làm vua, có kẻ ăn mày. Riêng tôi thì đã được Người cho làm thợ săn. Cha tôi bảo tay tôi sinh ra là để cầm súng. Ông cụ là một người rất giàu, sở hữu 250.000 mẫu đất tại Krưm, và ông cũng là một người thợ săn đầy nhiệt huyết. Khi tôi mới lên năm, cha đã tặng tôi một khẩu súng tí hon, được đặt làm riêng từ Matxcơva để bắn chim sẻ. Cái lần tôi nhỡ bắn trúng lũ gà tây quý của cha, ông không buồn trách phạt tôi mà lại khen ngợi tài bắn của tôi. Năm mười tuổi, tôi hạ con gấu đầu tiên trong sự nghiệp ở vùng Cáp-ca. Cả cuộc đời tôi là một cuộc săn dài. Như những cậu ấm khác, tôi nhập ngũ, và có đợt còn làm chỉ huy cả một đơn vị kỵ binh Cô-dắc. Tuy nhiên, săn bắn vẫn luôn là niềm đam mê thực sự của tôi. Tôi đã săn mọi loài vật ở mọi phương trời. Giờ bắt kể lại chắc tôi cũng không thể nhớ hết được mình đã hạ những loài nào đâu.”
Viên đại tướng rít điếu thuốc.
“Sau vụ loạn lạc tại Nga, tôi rời quê. Tướng dưới quyền Sa hoàng mà nấn ná ở lại thì thật không khôn ngoan chút nào. Rất nhiều quý tộc Nga đã trở nên trắng tay. Tôi thì may mắn hơn vì đã đổ khá nhiều tiền vào chứng khoán Mỹ, nhờ đó mà không đến nỗi phải đi mở quán cà phê ở Monte Carlo hay lái taxi tại Paris. Lẽ dĩ nhiên, tôi lại dấn thân vào các cuộc săn. Gấu xám ở dãy Rocky, cá sấu ở sông Hằng, tê giác ở Đông Phi. Đó cũng là nơi tôi bị con bò rừng Châu Phi kia bắt nằm viện suốt sáu tháng trời. Sau khi hồi phục, tôi lao ngay sang Amazon để săn báo đốm vì nghe đồn chúng rất xảo quyệt. Hóa ra lại không phải.” Viên đại tướng Cô-dắc thở dài “Chúng vô phương địch lại một người thợ săn với cái đầu thông minh cùng khẩu súng trường cực mạnh. Tôi bị một phen thất vọng ê chề. Một tối nọ, đang nằm dài trong lều với cơn đau đầu như búa bổ thì chợt một ý nghĩ kinh khủng len lỏi vào đầu óc tôi: săn bắn đã trở nên nhàm chán! Xin hãy nhớ rằng từ trước đến nay, săn bắn là cả cuộc đời của tôi. Tôi đã nghe kể rằng tại Mỹ, nhiều doanh nhân đã suy sụp hoàn toàn khi phải từ bỏ công việc kinh doanh của đời mình.”
“Vâng, quả đúng vậy,” Rainsford nói.
Viên đại tướng mỉm cười. “Tôi không để muốn để mình suy sụp.” Ông ta nói “Tôi phải làm gì đó. Anh Rainsford ạ, đầu óc tôi giỏi phân tích lắm. Hẳn chính vì thế nên tôi mới đam mê giải những bài toán hóc hiểm trong cuộc săn.”
“Hẳn rồi, thưa Đại tướng Zaroff.”
“Vậy nên,” ông ta nói tiếp, “tôi tự hỏi bản thân rằng lý do nào khiến những cuộc săn không còn làm mình hứng thú nữa. Anh là một người trẻ tuổi hơn tôi rất nhiều, anh Rainsford ạ, và quãng thời gian đi săn của anh cũng chưa được nhiều như tôi, nhưng có lẽ anh đoán được câu trả lời cho câu hỏi của tôi chăng?”
“Tôi chịu thôi.”
“Đơn giản thế này: săn bắn đã không còn là một ‘thú vui thể thao’ nữa. Nó đã trở nên quá dễ. Tôi luôn tóm được con mồi của mình. Luôn luôn. Còn gì nhàm chán hơn sự hoàn mỹ đâu.”
Viên đại tướng châm một điếu thuốc mới.
“Không con vật nào còn có thể thoát khỏi tay tôi nữa. Đây không phải nói ngoa mà là một sự thật hiển nhiên. Lũ thú chỉ có độc cặp chân cùng bản năng thuần túy. Bản năng thì sao đối chọi nổi với lý trí suy tính nào? Thú thật với anh rằng khi tìm ra được lý do, tôi đã có một khoảnh khắc không dễ chịu chút nào.”
Rainsford hơi chúi người tới trước một chút, chăm chú lắng nghe câu chuyện của vị gia chủ.
“Chính ý nghĩ đó đã giúp tôi nảy ra một ý tưởng về điều cần làm.” Viên đại tướng nói tiếp.
“Và đó là..?”
Viên đại tướng lặng lẽ mỉm cười, nụ cười của một người từng chạm trán chông gai song đã xoay xở chinh phục được nó. “Tôi đã phải nghĩ ra một loài thú mới để đi săn.” Ông ta nói.
“Một loài thú mới ư? Ngài chắc hẳn đang đùa.”
“Không hề.” Viên đại tướng gạt phắt đi. “Tôi không bao giờ lấy săn bắn ra làm đề tài cợt nhả. Tôi cần một loài thú mới. Tôi đã tìm ra nó. Thế nên tôi mua hòn đảo này, cho xây dinh cơ này, và tiến hành đi săn ở đây. Hòn đảo này có mọi thứ tôi cần: những cánh rừng với nguyên một mê hồn trận đường mòn, đồi núi, đầm lầy…”
“Nhưng còn loài thú kia thì sao, Đại tướng Zaroff?”
“Ồ,” Ông ta đáp, “chúng mang lại cho tôi trải nghiệm săn bắn thú vị nhất trần đời. Không cuộc săn nào sánh bằng với nó. Giờ tôi có thể đi săn hằng ngày với niềm vui thích không bao giờ cạn, bởi con mồi mới ấy có thể đấu trí cùng tôi.”
Nét bối rối hiển hiện trên gương mặt Rainsford.
“Tôi muốn một con mồi lý tưởng,” Viên đại tướng giải thích. “Vậy là tôi tự hỏi, ‘Con mồi lý tưởng phải có những đặc điểm gì? Tất nhiên, câu trả lời là, ‘Sự táo bạo, ranh ma, và trên hết là phải biết tư duy.’”
“Nhưng có loài nào biết tư duy đâu.” Rainsford phản bác.
“Anh bạn thân mến của tôi ơi,” viên đại tướng khẳng định, “có một loài đấy.”
“Chẳng lẽ ý ngài lại là…” Rainsford há hốc mồm.
“Tại sao không nhỉ?”
“Tôi không tin là ngài đang nói nghiêm túc, Đại tướng Zaroff ạ. Thật là một trò đùa đáng kinh tởm.”
“Sao lại không nghiêm túc được? Tôi đang nói về săn bắn mà.”
“Săn bắn ư? Trời đất quỷ thần ơi, Đại tướng Zaroff, ông đang nói đến chuyện giết người đấy.”
Lão tướng bật cười với vẻ rất đỗi hiền hòa. Lão nhìn Rainsford, điệu bộ ra chiều khó hiểu. “Khó có thể tin một thanh niên tân thời và văn minh như anh lại có thể mang trong đầu những tư tưởng sặc mùi lãng mạn về giá trị của con người. Chắc hẳn những gì anh đã kinh qua trong chiến tranh…”
“Không biến tôi thành một tên sát nhân máu lạnh.” Rainsford nói thẳng băng.
Lão tướng cười rung cả người, “Anh hài hước quá đi!” Lão nói. “Ai mà ngờ được thời nay, một thanh niên ăn học đầy đủ lại có thể có những ý nghĩ ngây thơ hay, mong anh lượng thứ cho, cổ lỗ sĩ đến vậy, kể cả ở một đất nước như Mỹ? Khác nào lên xe xịn mà bắt gặp hộp thuốc hít đâu. Ôi chà, rõ ràng anh mang gốc Thanh giáo rồi. Dù sao nhiều người Mỹ cũng từng là dân Thanh giáo mà. Tôi dám đánh cược rằng khi đi săn với tôi, anh sẽ quên phéng hết các quan điểm của mình đấy. Cả một chân trời phấn khích mới mẻ đang chờ đợi anh đấy, anh Rainsford ạ.”
“Thôi, tôi xin kiếu. Tôi là thợ săn, không phải kẻ sát nhân.”
“Ôi trời,” lão tướng vẫn không chút nóng nảy, “lại là cái từ nặng nề đó. Tuy nhiên, tôi tin mình có thể chứng minh cho anh thấy rằng anh đang chỉ cứng đầu vô cớ thôi đấy.”
“Thật thế ư?”
“Thế giới này dành cho kẻ mạnh. Nó là nơi đất sống của kẻ mạnh, và, trong trường hợp cần thiết, do kẻ mạnh đoạt lấy. Trần đời này, kẻ yếu được tạo ra chỉ nhằm mục đích thỏa mãn thú vui cho kẻ mạnh. Tôi là kẻ mạnh. Tại sao tôi lại không nên tận dụng món quà trời ban cho mình? Nếu tôi muốn đi săn, tại sao tôi lại không thể chứ? Tôi săn toàn phường cặn bã: bọn thủy thủ tàu rông - Ấn, da đen, Tàu, da trắng, người lai, đủ cả. Hai chục bọn này cộng lại cũng chưa bằng một con ngựa tốt hay một con chó săn.”
“Nhưng họ là con người.” Rainsford nổi nóng.
“Chính xác.” Lão tướng đáp. “Đó là lý do tôi dùng chúng. Chúng mang lại cho tôi niềm vui. Chúng biết tư duy một chút. Thế nên chúng nguy hiểm.”
“Nhưng ông kiếm người kiểu gì?”
Lão tướng nháy mắt. “Tên hòn đảo này là Bẫy Tàu.” Lão đáp “Thi thoảng, một vị thần biển hung dữ lại phái vài tên đến chỗ tôi. Đôi khi, vào những lần Đấng Toàn Năng không có bụng hào phóng, tôi tự ra tay giúp Người một chút. Đến đây nào, ra cửa sổ với tôi đi.”
Rainsford lại chỗ khung cửa và phóng mắt về phía đại dương.
“Nhìn đi! Đằng kia kìa!” Lão tướng chỉ tay vào màn đêm. Thoạt tiên, Rainsford chẳng thấy gì ngoài bóng tối vô tận. Nhưng rồi, ngay khi lão tướng bấm một công tắc, Rainsford chợt thấy một luồng sáng bừng lên tít phía ngoài xa.
Lão tướng cười khằng khặc. “Nó báo chỗ đó có kênh đào,” Lão nói, “nhưng thực tế chẳng có đâu. Những mỏm đá khổng lồ, sắc bén đang nằm phục sẵn tại đấy, tựa một con thủy quái với bộ hàm ngoác rộng. Đối với chúng, nghiền nát tàu bè cũng dễ dàng như tôi nghiền nát quả hồ đào này thôi.” Lão thả quả hồ đào xuống sàn gỗ và đạp chân xuống, nghiến nó răng rắc. “À vâng,” lão thản nhiên nói như thể đang đáp lại một câu hỏi, “Tôi có điện. Ở đây, chúng tôi cố giữ nếp văn minh mà.”
“Văn minh? Văn minh mà lại lấy bắn giết con người làm trò vui ư?”
Một ánh lửa giận dữ vụt lóe trong cặp mắt đen của lão tướng, nhưng nó chỉ tồn tại trong giây lát. Bằng giọng nói êm ái nhất của mình, lão nói, “Lạy Chúa tôi, anh thực là một thanh niên chính trực! Tôi xin cam đoan với anh rằng tôi không làm những chuyện như anh nghĩ đâu. Thế man rợ quá. Tôi đối xử với đám đấy tử tế hết mức có thể. Họ được ăn uống, tập tành đầy đủ. Họ hoàn toàn khỏe mạnh. Ngày mai, anh sẽ được tận mắt chứng kiến.”
“Ý ông là sao?”
“Chúng ta sẽ đi thăm nơi tập luyện của tôi,” Lão mỉm cười. “Nó nằm dưới hầm. Trong đó có khoảng một tá người. Chúng là thuyền viên con tàu San Luca, đi từ Tây Ban Nha, vô phúc va phải những mỏm đá ngoài kia. Đáng tiếc mà nói, chúng chỉ là một lũ mạt hạng. Đây chẳng phải kiểu mồi tử tế gì cho cam, quen lê la boong tàu hơn là sống sót trong rừng.” Lão tướng giơ tay ra hiệu, và Ivan, bấy giờ đang giữ vai trò phục vụ bàn, xuất hiện cùng một bình cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đặc. Rainsford phải ráng lắm mới ghìm được miệng lưỡi mình lại.
“Đây là một trò chơi.” Lão đại tướng ôn tồn nói tiếp. “Tôi đề xuất với một tên rằng chúng ta sẽ cùng tham gia một cuộc săn. Tôi cho hắn đầy đủ thức ăn và một con dao săn. Hắn được phép xuất phát trước ba tiếng. Tôi sẽ bám theo, trên người chỉ mang kèm một khẩu súng lục, loại từ cỡ đạn đến tầm bắn đều hết sức xoàng xĩnh. Nếu con mồi trốn tránh được tôi trong vòng ba ngày, hắn thắng. Còn nếu tôi tìm ra hắn…,” lão tướng mỉm cười, “... hắn thua.”
“Nếu anh ta từ chối làm vật bị săn thì sao?”
“À,” Lão đáp “tôi cho chúng quyền lựa chọn chứ. Ai không muốn chơi sẽ không phải chơi. Nếu không muốn tham gia cuộc săn, hắn sẽ được bàn giao cho Ivan. Đã có thời Ivan vinh hạnh được làm quản ngục riêng của Sa hoàng, và anh ta có gu tiêu khiển riêng. Trăm lần như một, chúng đều sẽ chọn cuộc săn, anh Rainsford ạ. Trăm lần như một.”
“Vậy nếu họ thắng?”
Nụ cười trên gương mặt Zaroff càng thêm toe toét. “Tới nay, tôi chưa từng thua,” Lão nói, sau đó lại vội vàng bổ sung, “Mong anh đừng coi tôi là kẻ khoác lác. Hầu hết bọn chúng đều chỉ gây rối được chút đỉnh. Thỉnh thoảng tôi mới gặp phải trường hợp khó nhằn. Có lần một tên xém nữa thắng cuộc. Tôi phải viện tới lũ chó.”
“Chó nào kia?”
“Xin mời qua đây. Tôi sẽ cho anh xem.”
Lão tướng đưa Rainsford tới một cửa sổ khác. Ánh đèn nhập nhoạng tỏa ra từ khung cửa hắt xuống sân những hình thù quái đản, và Rainsford thấy đi lại loanh quanh dưới đó là khoảng một tá bóng đen to vật vã; khi quay lại phía anh, mắt của chúng ánh lên xanh lè.
“Đám này làm ăn ra trò lắm đấy.” Lão tướng bình phẩm. “Cứ bảy giờ hàng đêm là chúng lại được thả ra đi dạo. Nếu ai định đột nhập vào nhà tôi hay đào tẩu khỏi đây, hắn sẽ gặp một tai nạn rất thảm khốc.” Lão ngâm nga một khúc nhạc ngắn, một bài hát từng được biểu diễn tại Folies Bergere.
“Và giờ,” lão nói tiếp, “hãy để tôi cho anh chiêm ngưỡng những tiêu bản đầu mới nhất của tôi. Xin mời anh theo tôi đến thư viện.”
“Mong ngài lượng thứ,” Rainsford viện cớ, “cho tôi được cáo lui, thưa Đại tướng Zaroff. Tối nay tôi cảm thấy không được khỏe lắm.”
“Ồ, vậy sao?” Lão tướng ân cần hỏi “Thế cũng phải thôi. Dù sao anh cũng đã vất vả bơi hết một chặng đường dài để tới được đây. Anh cần ngủ cho đẫy giấc. Tôi đảm bảo hôm sau anh sẽ thấy mình như một con người khác thôi. Khi ấy chúng ta sẽ đi săn nhé? Tôi có một tên khá triển vọng…”
Rainsford hớt hải đi nhanh ra khỏi căn phòng.
“Thật đáng tiếc là anh không thể đi cùng tôi đêm nay,” Zaroff gọi với theo. “Tôi tin cuộc săn hôm nay sẽ thú vị lắm đấy. Một tên da đen cao lớn, khỏe mạnh. Hắn có vẻ nhanh trí… Mà thôi, chúc anh ngủ ngon, anh Rainsford.”
Giường thì êm, áo quần thì toàn lụa hảo hạng, chưa kể mọi thớ cơ trong người Rainsford đều uể oải rã rượi, ấy nhưng có bơm bao nỗi buồn ngủ vào đầu thì bộ óc anh vẫn không chịu ngơi nghỉ. Anh nằm đó, mắt mở thao láo. Có lần anh những tưởng mình nghe thấy tiếng chân rón rén bên ngoài. Anh thử mở tung cửa, nhưng nó không nhúc nhích. Anh lại chỗ cửa sổ nhìn ra ngoài. Phòng của anh ngự tít trên một ngọn tháp. Cả tòa lâu đài đã tắt đèn, không gian chìm vào tăm tối, tĩnh mịch; may là vẫn còn mảnh trăng non, và nhờ đó mà anh lờ mờ thấy được khoảnh sân. Trên đó, lượn qua lượn lại trong bóng đêm là những hình thù đen ngòm, không phát ra dù chỉ một tiếng động. Nghe thấy tiếng Rainsford bên cửa sổ, lũ chó săn ngước cặp mắt xanh lè lên nhìn đầy mong đợi. Rainsford ngay lập tức lùi về giường và nằm vật xuống. Anh tìm đủ cách để ép mình vào giấc ngủ. Lúc hơi chợp mắt được một chút thì bình minh cũng đã bắt đầu lên, và đúng vào khoảnh khắc đó, anh nghe thấy từ xa trong rừng, một tiếng súng nổ đanh gọn vang lên.
---
Cùng dấn sâu vào dòng giả tưởng với tác phẩm mới nhất của Bookism tại đây bạn nhé.
↓ ↓